Tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của các mỹ nhân sân khấu cải lương phần 2
Tiểu sử cuộc đời
Bạch Tuyết (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương https://cailuongvn.net danh tiếng, đư...[ ↓ ] XEM THÊMTìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của các mỹ nhân sân khấu cải lương phần 2
Tiểu sử cuộc đời
Bạch Tuyết (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương https://cailuongvn.net danh tiếng, được mệnh danh là "Cải lương chi bảo". Bà cũng là Tiến sĩ Nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam tôn vinh danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.
Bà còn viết lời vọng cổ cho các bài tân nhạc với bút danh là Nguyễn Thị Khánh An.
Bà tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Ðốc (nay thuộc xã Khánh An, huyện An Phú), tỉnh An Giang. Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.
Mồ côi mẹ khi 9 tuổi (1955), và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như "Nắng đẹp miền Nam", "Làng tôi", "Tiếng còi trong sương đêm"...
Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương https://cailuongvn.net , lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng.
Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này, bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền. Nhờ đó tên tuổi của bà dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ bà rất nhiều trong bước đường sau này.
Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở "Lá thắm chỉ hồng", cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là vở "Kiếp chồng chung", "Suối mơ rền áo cưới"... Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở "Tiếng hát Muồng Tênh", tên tuổi bà bắt đầu nổi.
Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài. Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế, để đi học.
Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau được nhận giải Thanh Tâm cho diễn viên triển vọng.
Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều - Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở "Tần Nương Thất" đã mang lại cho bà huy chương vàng giải Thanh Tâm cho nghệ sĩ xuất sắc.
Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành 1 cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả. Bà ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.
Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, cùng với Hùng Cường, mở gánh hát Hùng Cường - Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: "Trăng Thề Vườn Thúy", "Má Hồng Phận Bạc", "Cung Thương sầu nguyệt hạ". Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên, do không biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật.
Năm 1985 (40 tuổi), Bạch Tuyết bước vào giảng đường đại học và có được bằng Cử nhân Ngữ văn.
Năm 1988, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia.
Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á", trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam. Với tư cách giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo tồn phát triển văn hóa - văn hóa dân tộc của Đại học Bình Dương, bà đã tổ chức nhiều chương trình sân khấu có giá trị về nghệ thuật dân tộc. Hằng tháng, trung tâm này kết hợp cùng Đài truyền hình Bình Dương thực hiện chương trình “Chân dung đối thoại” với mục đích phổ biến, đề cao văn hóa nghệ thuật dân tộc.
Luôn đau đáu với sự nghiệp phát triển cải lương, bà ôm ấp kế hoạch xây dựng những “trường ca cải lương https://cailuongvn.net ” và âm thầm bắt tay vào viết những trường ca chuyển thể từ tác phẩm Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Bút quan hoài (Á Nam Trần Tuấn Khải)… Hiện tác phẩm chuyển thể Kinh Pháp Cú thành trường ca cải lương của bà với nhiều bài bản dễ nhớ, dễ hát, dễ thuộc đã được tái bản nhiều lần qua hình thức VCD, được khán giả đón nhận và khen ngợi…
Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân ở lần xét duyệt thứ 7 (năm 2011).
Những người bà có dịp ca diễn chung: Thanh Sang, Bảo Quốc, Ngọc Giàu, Thanh Tuấn, Lệ Thủy, Diệp Lang, Minh Phụng, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thái Châu, Tấn Tài, Út Trà Ôn,... Bà từng diễn chung với nhiều kép, nhưng người đóng chung với bà để lại ấn tượng sâu sắc là Hùng Cường. Họ đã tạo nên cặp đôi "sóng thần" cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 1960.
Những vai diễn
Kim Vân Kiều (vai Thúy Kiều)
Thái hậu Dương Vân Nga (vai Thái hậu Dương Vân Nga)
Lá thắm chỉ hồng (vai Lệ Chi)
Đoạn tuyệt (vai Loan)
Mưa rừng (vai Tuyền)
Hoa Mộc Lan tùng chinh (vai Hoa Mộc Lan)
Đời cô Lựu (vai cô Lựu)
Nửa đời hương phấn (vai Diệu)
Tuyệt tình ca (vai Lê Trường An)
Tần Nương Thất (vai Tần nương)
Lý Chiêu Hoàng (vai Lý Chiêu Hoàng)
Thượng hoàng Trần Nhân Tông (vai An Tư)
Lục Vân Tiên (vai Kiều Nguyệt Nga)
Nguyệt Khuyết (vai bà Xinh)
Tóc mai sợi vắn (vai bà Hạnh)
CD, băng nhạc
Kim Vân Kiều
Kinh Pháp Cú
Đức Phật Thích ca
Kiều Nguyệt Nga
Đời cô Lựu
Thái hậu Dương Vân Nga
Mùa thu lá bay
Các bài tân cổ giao duyên, vọng cổ
24 giờ phép
Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
Bông hồng cài áo
Chuyến tàu hoàng hôn (Tân nhạc: Hoài Linh, Minh Kỳ)
Dạ cổ hoài lang (Tác giả: Cao Văn Lầu)
Đau xót lý chim quyên (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển)
Đêm Gành hào nghe điệu hoài lang (Nhạc: Vũ Đức Sao Biển)
Đón xuân này nhớ xuân xưa
Dương Quý Phi (Tác giả: Viễn Châu)
Kẻ ở miền xa
Lối mộng thiền xưa
Miền nhớ
Núm ruột quê hương
Thêu áo như lai
Thương màu áo lam
Tình ca đất phương Nam
Tình ca quê hương
Tình sầu
Xin anh giữ trọn tình quê
...
Bài tân nhạc do bà viết lời vọng cổ
Bông hồng cài áo
Thêu áo như lai
Thương màu áo lam
Miền nhớ
Tình ca đất phương Nam
Chuyến tàu hoàng hôn
Mưa nửa đêm
Tình ca quê hương
Chuyến tàu hoàng hôn
Đau xót lý chim quyên
Trăng về thôn dã
...
Những phim tham gia
Như hạt mưa sa (1971)
Như giọt sương khuya (1972)
Lan và Điệp
Con ma nhà họ Hứa (1973)
Đời tư
Bà từng tìm cách quyên sinh 3 lần nhưng bất thành.
Bà từng quy y Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc.
Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Dù ly dị nhưng sau này 2 người vẫn dành cho nhau những lời tốt đẹp.
Sau khi ly dị, cũng trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ 2 với ông Charles Đức, một Việt kiều quốc tịch Pháp. Hai người có với nhau 1 người con trai tên Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang làm việc ở Mỹ.
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân, giai nhân của sân khấu cải lương https://cailuongvn.net
Tiểu sử Nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngân:
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân tên thật là Nguyễn Thị Ngà, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1972 năm...[ ↓ ] XEM THÊMNữ nghệ sĩ Thanh Ngân, giai nhân của sân khấu cải lương https://cailuongvn.net
Tiểu sử Nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngân:
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân tên thật là Nguyễn Thị Ngà, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1972 năm Nhâm Tý .
Thanh Ngân là con gái út của hai nghệ sĩ Hoài Châu – Kim Hoa, thuộc về thế hệ thứ tư trong đại gia đình nghệ sĩ tài danh có 4 đời theo nghề hát từ thập niên 1930 đến nay : Ông Hai Nuối, bầu gánh hát Tân Hí Ban, thuộc trường phái kiếm hiệp Mộng Vân, ông Hai Nuối là ông cố của nữ nghệ sĩ Thanh Hằng và Thanh Ngân. Các diễn viên Hề Tỵ, Ba Tẹt là ông cậu, nữ diễn viên tiền phong Tư Hélène là bà ngoại, kép chánh Hai Long là ông ngoại của Thanh Ngân.
Cha mẹ của Thanh Ngân có 4 người con gái tài sắc đều là diễn viên sân khấu : Thanh Hằng, Ngân Huỳnh , Thanh Ngọc, Thanh Ngân.
Sự nghiệp
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân được huy chương vàng giải Trần Hữu Trang năm 1996 và giải Mai Vàng diễn viên xuất sắc năm 2000.
Từ lúc còn thơ ấu, Thanh Ngân đã theo cha mẹ( nghệ sĩ Hoài Châu và Kim Hoa) lưu diễn qua các đoàn hát Tiền Giang, đoàn Hậu Giang, đoàn Cà Mau, đoàn sông Hương ( Huế), đoàn Sài Gòn 1, đoàn Trần Hữu Trang, đoàn Minh Tơ, đoàn Huỳnh Long.
Thanh Ngân lớn dần theo dấu chân của cô qua các gánh hát từ miền Tây, miền Ðông tới các tỉnh miền Trung miền Bắc, cho tới khi Thanh Ngân được về với nhà hát Trần Hữu Trang thì Thanh Ngân đã là một nghệ sĩ ca cải lương https://cailuongvn.net khá vững tay nghề, giọng ca điêu luyện, ngọt ngào và lối diễn xuất đã đạt được những chuẩn mực trong nghề hát.
Thanh Ngân được học ở trường nghệ thuật sân khấu của nhà hát Trần Hữu Trang. Năm 1996 cô tốt nghiệp xong lại nhận được huy chương vàng giải Trần Hữu Trang. Thanh Ngân giống như một con ong cần mẫn, chăm chỉ hút nhụy và xây tổ để tạo ra chất mật ngọt cống hiến cho đời.
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân thuộc về loại đào đẹp, thật khó mà cầm lòng trước nét tươi tắn duyên dáng kỳ lạ trong nụ cười của Thanh Ngân. Thanh Ngân được khán giả cho là hậu duệ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga. Thanh Ngân có một mái tóc dài đen tuyền như mái tóc của Thanh Nga ngày xưa, nét mặt xinh đẹp một cách thanh tú, nước da trắng hồng, đôi mắt long lanh gợi cảm, miệng cười có đôi má lúng đồng tiền, Thanh Ngân toát lên được một nữ tính diụ dàng khả ái trong dáng đi, điệu đứng, từ trong giọng nói tiếng cười, cô gái tuyệt sắc Thanh Ngân thành công dễ dàng khi cô xuất hiện lần đầu trên sân khấu.
Đánh giá qua các vai diễn
° Trong tuồng Duyên Kiếp, Thanh Ngân diễn tả một cách xuất sắc hình ảnh một người nghèo bị ức hiếp một cách vô lý mà không dám phản kháng, đúng như số phận của những cô thôn nữ nghèo trong cái thời phong kiến mà các ông bà địa chủ, Hội đồng có quyền quyết định đến sinh mạng và cuộc sống riêng tư của những người tá điền trong thôn ấp.
* Những vai tuồng để đời " Thanh Ngân trong vai Huệ tuồng Duyên Kiếp. Trong vai Mai Ðình tuồng Chuyện Tình Hàn Mạc Tử, với nỗi u buồn vời vợi trong ánh mắt, Thanh Ngân - Mai Ðình đã truyền đi được lòng ái mộ nhà thơ đến độ cam chịu ôm một mối tình câm lặng, vô vọng, đau khổ mà không thể buông cái nỗi đau tuyệt vọng đó ra được khi mà nàng tự biết mình là kẻ đến sau, đến trong lúc thần tượng của mình đang chìm dần trong cõi chết.
Thanh Ngân đã mê hoặc khán giả với sự đầm thắm mặn mà đầy nữ tính trong vai Mai Ðình, chỉ những giọt nước mắt lặng lẽ trôi dài trên má, giọng nói bi thương sâu lắng, Thanh Ngân đã thoát khỏi cái cách diễn khóc sướt mướt trong vai người phụ nữ bị ức hiếp như đã diễn trong tuồng Duyên Kiếp.
Trong vai Phượng tuồng Vợ và Tình của soạn giả Nguyễn Thành Châu, Thanh Ngân tạo được những âm thanh trong trẽo tươi vui của cuộc sống, Thanh Ngân trong vai Phượng, người vợ bị chồng phụ. Chồng nàng chạy theo cô nhân tình đẹp hơn nàng, có tài năng và sức quyến rũ hơn nàng, Phượng – Thanh Ngân bộc lộ sự cam chịu để giữ tình yêu của mình bằng một nhân cách biết tự trọng.
Chính nhân cách của nàng, tình yêu của nàng đã thức tỉnh chồng nàng để mà quay về với nàng. Trong vai Phượng, Thanh Ngân làm cho khán giả nhớ lại hình ảnh đẹp của cố nghệ sĩ Thanh Nga, cũng từng vào vai Phượng một cách đầm thấm mà phong cách rất sang trọng.
Trong tuồng Trà Hoa Nữ, Thanh Ngân – Trà Hoa Nữ có một nét đẹp thanh cao trong sáng, thành thật đến cùng trong đau khổ, trong tình yêu, trong tuyệt vọng nhưng cũng sẵn sàng nhận lấy cái phần số bất công mà đời dành cho mình. Giọt nước mắt chậm rãi lăn dài trên má với đôi môi mím chặt cố nuốt nỗi đau vào lòng, Trà Hoa Nữ Thanh Ngân khiến cho khán giả cũng mềm lòng khóc thương cho một cánh hoa trà mong manh bị vò xé vì thành kiến bất công của người đời.
Trong các tuồng dã sử, tuồng Tàu, với y phục cổ trang, Thanh Ngân đẹp một cách vương giả, sang trọng, vừa uy nghi vừa toát lên được một vẻ phúc hậu khi mà Thanh Ngân hát những tuồng như Thái Hậu Dương Vân Nga, Bên Cầu Dệt lụa, Tiếng trống Mê Linh….
Giống như những chuyện thần kỳ trong cổ tích, Thanh Ngân ngày nào còn gặp khó khăn chập chững trên sân khấu, bỗng chốc mọc đôi cánh thiên thần, bay cao và bay xa, sáng chói trên vòm trời nghệ thuật.
Trích bài viết của Soạn Giả Nguyễn Phương. Chân thành cám ơn Soạn Giả.
Còn tiếp....
Cải lương Chi Bảo Bạch Tuyết là ai?
Năm 1963, khi nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết vừa nhận Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm trong vở Tàn một kiếp hoa (diễn cùng nghệ sĩ Út Trà Ôn trên Sân khấu Thống N...[ ↓ ] XEM THÊMCải lương Chi Bảo Bạch Tuyết là ai?
Năm 1963, khi nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết vừa nhận Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm trong vở Tàn một kiếp hoa (diễn cùng nghệ sĩ Út Trà Ôn trên Sân khấu Thống Nhất) thì soạn giả Hoa Phượng đã tuyên bố: “Bạch Tuyết là Cải lương https://cailuongvn.net chi bảo, cô đào này có biệt tài sáng tạo và óc thông minh, sẽ còn tiến xa hơn nữa nếu diễn vai nào do Hà Triều - Hoa Phượng viết”. Có nhiều người cho rằng Hoa Phượng quá đà khi đưa Bạch Tuyết “lên mây”, nhưng ông chỉ cười: “Cứ xem tới tới thì sẽ thấy lời tôi nói không sai”.
Và quả thật như vậy, sau đó không lâu, trên trang Báo Kịch Trường của ký giả Phong Vân, cái tên Bạch Tuyết đã được đăng kèm với tên gọi Cải lương chi bảo. Ngay lập tức, Cải lương chi bảo Bạch Tuyết được chấp nhận một cách rộng rãi trên các báo khác và trong quần chúng. Danh hiệu này đã đi cùng với Bạch Tuyết và hàng triệu trái tim khán giả hâm mộ nghệ thuật cải lương https://cailuongvn.net suốt hơn 40 năm qua…
Vừa vào nghề đã đóng đào chính
Bạch Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945 tại Khánh Bình - Châu Đốc - An Giang. Từ nhỏ, Bạch Tuyết đã có khiếu ca hát tân nhạc, ngâm thơ, mỗi khi nhà trường có văn nghệ, lúc nào Bạch Tuyết cũng được các thầy cô “chấm” lên trình diễn. Trong thời gian đi học, Bạch Tuyết cùng bạn bè thường kéo nhau vào hậu trường sân khấu xem tập tuồng và cũng để xin hình, chữ ký của thần tượng Thanh Nga. Vừa nhìn thấy Bạch Tuyết, Thanh Nga bất ngờ hỏi: “Em có biết hát không?”. “Dạ thưa, em chỉ biết hát tân nhạc thôi” - Bạch Tuyết bẽn lẽn đáp lời. Thanh Nga mỉm cười nói: “Cưng đi hát đi, chị tin rằng cưng sẽ thành công trong nghề nghệ thuật đó”. Những lời nói khích lệ đó trở thành động lực thúc đẩy Bạch Tuyết bước vào nghiệp cầm ca.
Chính soạn giả Điêu Huyền đã đích thân đến gặp ba của Bạch Tuyết để xin cho chị đi theo đoàn hát. Cả gia đình hai bên nội ngoại nhất quyết ngăn cản vì cho rằng đi hát là “xướng ca vô loài”. Bạch Tuyết vừa khóc vừa nói với ba mình: “Ba cho con đi hát, ngày nào nổi tiếng thì sẽ về, còn thất bại con sẽ tự kết liễu đời mình để không làm hổ danh gia đình…”. Thấy Bạch Tuyết cương quyết quá ông đành phải chiều theo ý con. Lúc đó, soạn giả Điêu Huyền cũng vừa nhận Bạch Tuyết làm con nuôi, và chính vì sự đỡ đầu này mà khi vào đoàn hát, ít nghệ sĩ và nhân viên trong đoàn dám ăn hiếp chị.
Bạch Tuyết vừa bước vào nghề đã may mắn được đóng ngay đào chính, đây là một điều rất hiếm trong nghề cải lương https://cailuongvn.net . Số là năm 1961, khi Đoàn Kiên Giang chuẩn bị trình diễn vở tuồng Lá thắm chỉ hồng, cô đào chính đột ngột rời đoàn. Gần tới ngày trình diễn mà đào chính không có, soạn giả Điêu Huyền liền cho Bạch Tuyết thế vào ngay. Ngay buổi diễn đầu, Bạch Tuyết đã làm toàn thể khán giả ngạc nhiên trước lối diễn bi lụy tài tình qua vai cô lái đò Lệ Chi. Khi về Đoàn Thống Nhất diễn với danh ca Út Trà Ôn, tài năng của Bạch Tuyết bật sáng, được trao Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm. Năm 1964, Bạch Tuyết về Đoàn Dạ Lý Hương, do ông bầu Xuân thành lập, chính từ sân khấu này với sự cộng tác của hai soạn giả sáng chói Hà Triều - Hoa Phượng, nhiều vở diễn đã gắn liền với tên tuổi Bạch Tuyết cho đến hôm nay, trong đó vở Nỗi buồn con gái (tức Tần Nương Thất) đã đem về cho Bạch Tuyết giải thưởng: Huy chương vàng Diễn viên xuất sắc giải Thanh Tâm năm 1965.
Năm 1966, bầu Xuân mời được Hùng Cường từ Đoàn Kim Chung về Gánh Dạ Lý Hương. Như cá gặp nước, Bạch Tuyết - Hùng Cường trở thành “cặp sóng thần”, thành công trong nhiều vở tuồng: Bạch Hải Đường, Tuyệt tình ca, Cho trọn cuộc tình, Trăng thề vườn Thúy… Bạch Tuyết “đóng đô” ở Đoàn Dạ Lý Hương liên tục 4 năm mà không hề chuyển đổi sang một đại ban nào khác cho dù có nhiều lời mời trọng vọng và quyền lợi gấp đôi.
Hai mối tình đẹp
Có rất nhiều giai thoại đồn thổi xung quanh chuyện tình cảm Bạch Tuyết với các anh kép diễn chung. Tuy nhiên, mối tình đẹp đầu tiên của chị là với danh thủ Phạm Huỳnh Tam Lang. Năm 1966, Bạch Tuyết đang trong thời kỳ vàng son rực rỡ thì cũng vào năm này, Tam Lang cùng Đội tuyển bóng đá quốc gia dự thi giải Túc Cầu Đông Nam Á tại Mã Lai và đoạt ngôi vị vô địch đem về cho Việt Nam chiếc huy chương vàng. Ba ngày trước lúc Đội tuyển bóng đá miền Nam VN dự Cúp Merdeka 1966, toàn đội bỗng nhận được giấy mời đi xem suất hát của Đoàn cải lương Dạ Lý Hương. Trước giờ kéo màn, đại diện đoàn hát gửi lời cầu chúc đội tuyển “mã đáo thành công”. Cải lương chi bảo Bạch Tuyết bước ra từ cánh gà sân khấu, thay cho câu vọng cổ mùi mẫn là bó hoa tươi thắm đến trao tận tay Phạm Huỳnh Tam Lang khiến danh thủ này phải thốt lên: “Tôi như bị cô ấy hớp hồn khi nhận hoa...”. Đó là lần đầu tiên cả hai gặp nhau và tiếng sét ái tình đã bùng nổ trong tim hai người. Đôi trai tài gái sắc kết hôn năm 1967, nhưng chỉ được ba năm, cuộc tình này đã phải “anh đường anh, tôi đường tôi”. Bạch Tuyết tâm sự: “Hai đứa thương nhau, mà như tuồng cải lương vậy đó. Chúng tôi không có con nên đành phải xa nhau vì anh Tam Lang là người cực kỳ có hiếu với gia đình. Về sau, anh Tam Lang lập gia đình và có một con gái. Hai đứa thương nhau lắm nhưng xa nhau chỉ vì hoàn cảnh thôi. Bây giờ chúng tôi vẫn rất quý nhau”.
Bạch Tuyết cũng có một con trai với người chồng về sau, Charles Đức, quốc tịch Pháp, có đến hai bằng tiến sĩ kinh tế ở Pháp và tiến sĩ luật học ở Hà Lan. 29 tuổi, Bạch Tuyết đã thực hiện được điều mơ ước, đó là làm mẹ. Đam mê làm mẹ khiến Bạch Tuyết tạm ngưng các hoạt động trình diễn suốt từ năm 1972 đến năm 1979. Chị cho biết: “Lúc mới gặp gỡ, anh ấy buông lời làm tôi bực tức: Cô là người quá tên tuổi trong lòng công chúng, nhưng trình độ thì chưa xứng đáng với cô. Đó là bi kịch của người nghệ sĩ. Tôi muốn tạo điều kiện để cô lấp đầy khoảng trống kiến thức ấy. Nghe xong, tôi choáng váng vì cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng ngẫm nghĩ lại, tôi thấy anh là người trung thực ngay thẳng. Lúc này, tôi nhận ra một phần giá trị của con người là học vấn”. Năm 1998, Bạch Tuyết tốt nghiệp Khoa Đạo diễn ở Viện Hàn lâm sân khấu và điện ảnh tại Sophia - Bungari. Sau đó, chị bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Hoàng gia kịch nghệ Anh quốc. Chị tâm sự: “Tôi cảm ơn chồng tôi, dù bây giờ cả hai chỉ còn là bạn. Chính anh đã định hướng cho tôi một lối đi mà trước đây mẹ tôi từng ao ước, đó là hướng về tri thức. Một con đường đi mãi không bao giờ đến đích”.
Lê Quang Thanh Tâm
Hồi nhỏ, đọc truyện cổ tích, trong truyện có viết là người hiền không bao giờ chết, vì sẽ được bà tiên tới cứu. Nhưng mà mẹ Cải lương chi bảo Bạch Tuyết quá hiền, tại sao chết mà không ai cứu. Điều đó làm cho chị suy nghĩ hoài, cho đến một lúc, gặp được giáo lý của Phật giáo, thông qua giáo lý nhà Phật, Bạch Tuyết đã tìm được câu trả lời cho những bế tắc của mình.
Cải lương https://cailuongvn.net/ Chi Bảo Bạch Tuyết
Năm 1963, khi nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết vừa nhận Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm trong vở Tàn một kiếp hoa (diễn cùng nghệ sĩ Út Trà Ôn trên...[ ↓ ] XEM THÊMCải lương https://cailuongvn.net/ Chi Bảo Bạch Tuyết
Năm 1963, khi nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết vừa nhận Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm trong vở Tàn một kiếp hoa (diễn cùng nghệ sĩ Út Trà Ôn trên Sân khấu Thống Nhất) thì soạn giả Hoa Phượng đã tuyên bố: “Bạch Tuyết là Cải lương chi bảo, cô đào này có biệt tài sáng tạo và óc thông minh, sẽ còn tiến xa hơn nữa nếu diễn vai nào do Hà Triều – Hoa Phượng viết”. Có nhiều người cho rằng Hoa Phượng quá đà khi đưa Bạch Tuyết “lên mây”, nhưng ông chỉ cười: “Cứ xem tới tới thì sẽ thấy lời tôi nói không sai”.
Và quả thật như vậy, sau đó không lâu, trên trang Báo Kịch Trường của ký giả Phong Vân, cái tên Bạch Tuyết đã được đăng kèm với tên gọi Cải lương chi bảo. Ngay lập tức, Cải lương chi bảo Bạch Tuyết được chấp nhận một cách rộng rãi trên các báo khác và trong quần chúng. Danh hiệu này đã đi cùng với Bạch Tuyết và hàng triệu trái tim khán giả hâm mộ nghệ thuật cải lương suốt hơn 40 năm qua…
Vừa vào nghề đã đóng đào chính
Bạch Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945 tại Khánh Bình – Châu Đốc – An Giang. Từ nhỏ, Bạch Tuyết đã có khiếu ca hát tân nhạc, ngâm thơ, mỗi khi nhà trường có văn nghệ, lúc nào Bạch Tuyết cũng được các thầy cô “chấm” lên trình diễn. Trong thời gian đi học, Bạch Tuyết cùng bạn bè thường kéo nhau vào hậu trường sân khấu xem tập tuồng và cũng để xin hình, chữ ký của thần tượng Thanh Nga. Vừa nhìn thấy Bạch Tuyết, Thanh Nga bất ngờ hỏi: “Em có biết hát không?”. “Dạ thưa, em chỉ biết hát tân nhạc thôi” – Bạch Tuyết bẽn lẽn đáp lời. Thanh Nga mỉm cười nói: “Cưng đi hát đi, chị tin rằng cưng sẽ thành công trong nghề nghệ thuật đó”. Những lời nói khích lệ đó trở thành động lực thúc đẩy Bạch Tuyết bước vào nghiệp cầm ca.
Chính soạn giả Điêu Huyền đã đích thân đến gặp ba của Bạch Tuyết để xin cho chị đi theo đoàn hát. Cả gia đình hai bên nội ngoại nhất quyết ngăn cản vì cho rằng đi hát là “xướng ca vô loài”. Bạch Tuyết vừa khóc vừa nói với ba mình: “Ba cho con đi hát, ngày nào nổi tiếng thì sẽ về, còn thất bại con sẽ tự kết liễu đời mình để không làm hổ danh gia đình…”. Thấy Bạch Tuyết cương quyết quá ông đành phải chiều theo ý con. Lúc đó, soạn giả Điêu Huyền cũng vừa nhận Bạch Tuyết làm con nuôi, và chính vì sự đỡ đầu này mà khi vào đoàn hát, ít nghệ sĩ và nhân viên trong đoàn dám ăn hiếp chị.
Bạch Tuyết vừa bước vào nghề đã may mắn được đóng ngay đào chính, đây là một điều rất hiếm trong nghề cải lương https://cailuongvn.net/ Số là năm 1961, khi Đoàn Kiên Giang chuẩn bị trình diễn vở tuồng Lá thắm chỉ hồng, cô đào chính đột ngột rời đoàn. Gần tới ngày trình diễn mà đào chính không có, soạn giả Điêu Huyền liền cho Bạch Tuyết thế vào ngay. Ngay buổi diễn đầu, Bạch Tuyết đã làm toàn thể khán giả ngạc nhiên trước lối diễn bi lụy tài tình qua vai cô lái đò Lệ Chi. Khi về Đoàn Thống Nhất diễn với danh ca Út Trà Ôn, tài năng của Bạch Tuyết bật sáng, được trao Huy chương vàng Triển vọng giải Thanh Tâm. Năm 1964, Bạch Tuyết về Đoàn Dạ Lý Hương, do ông bầu Xuân thành lập, chính từ sân khấu này với sự cộng tác của hai soạn giả sáng chói Hà Triều – Hoa Phượng, nhiều vở diễn đã gắn liền với tên tuổi Bạch Tuyết cho đến hôm nay, trong đó vở Nỗi buồn con gái (tức Tần Nương Thất) đã đem về cho Bạch Tuyết giải thưởng: Huy chương vàng Diễn viên xuất sắc giải Thanh Tâm năm 1965.
Năm 1966, bầu Xuân mời được Hùng Cường từ Đoàn Kim Chung về Gánh Dạ Lý Hương. Như cá gặp nước, Bạch Tuyết – Hùng Cường trở thành “cặp sóng thần”, thành công trong nhiều vở tuồng: Bạch Hải Đường, Tuyệt tình ca, Cho trọn cuộc tình, Trăng thề vườn Thúy… Bạch Tuyết “đóng đô” ở Đoàn Dạ Lý Hương liên tục 4 năm mà không hề chuyển đổi sang một đại ban nào khác cho dù có nhiều lời mời trọng vọng và quyền lợi gấp đôi.
Hai mối tình đẹp
Có rất nhiều giai thoại đồn thổi xung quanh chuyện tình cảm Bạch Tuyết với các anh kép diễn chung. Tuy nhiên, mối tình đẹp đầu tiên của chị là với danh thủ Phạm Huỳnh Tam Lang. Năm 1966, Bạch Tuyết đang trong thời kỳ vàng son rực rỡ thì cũng vào năm này, Tam Lang cùng Đội tuyển bóng đá quốc gia dự thi giải Túc Cầu Đông Nam Á tại Mã Lai và đoạt ngôi vị vô địch đem về cho Việt Nam chiếc huy chương vàng. Ba ngày trước lúc Đội tuyển bóng đá miền Nam VN dự Cúp Merdeka 1966, toàn đội bỗng nhận được giấy mời đi xem suất hát của Đoàn cải lương Dạ Lý Hương. Trước giờ kéo màn, đại diện đoàn hát gửi lời cầu chúc đội tuyển “mã đáo thành công”. Cải lương chi bảo Bạch Tuyết bước ra từ cánh gà sân khấu, thay cho câu vọng cổ mùi mẫn là bó hoa tươi thắm đến trao tận tay Phạm Huỳnh Tam Lang khiến danh thủ này phải thốt lên: “Tôi như bị cô ấy hớp hồn khi nhận hoa…”. Đó là lần đầu tiên cả hai gặp nhau và tiếng sét ái tình đã bùng nổ trong tim hai người. Đôi trai tài gái sắc kết hôn năm 1967, nhưng chỉ được ba năm, cuộc tình này đã phải “anh đường anh, tôi đường tôi”. Bạch Tuyết tâm sự: “Hai đứa thương nhau, mà như tuồng cải lương vậy đó. Chúng tôi không có con nên đành phải xa nhau vì anh Tam Lang là người cực kỳ có hiếu với gia đình. Về sau, anh Tam Lang lập gia đình và có một con gái. Hai đứa thương nhau lắm nhưng xa nhau chỉ vì hoàn cảnh thôi. Bây giờ chúng tôi vẫn rất quý nhau”.
Bạch Tuyết cũng có một con trai với người chồng về sau, Charles Đức, quốc tịch Pháp, có đến hai bằng tiến sĩ kinh tế ở Pháp và tiến sĩ luật học ở Hà Lan. 29 tuổi, Bạch Tuyết đã thực hiện được điều mơ ước, đó là làm mẹ. Đam mê làm mẹ khiến Bạch Tuyết tạm ngưng các hoạt động trình diễn suốt từ năm 1972 đến năm 1979. Chị cho biết: “Lúc mới gặp gỡ, anh ấy buông lời làm tôi bực tức: Cô là người quá tên tuổi trong lòng công chúng, nhưng trình độ thì chưa xứng đáng với cô. Đó là bi kịch của người nghệ sĩ. Tôi muốn tạo điều kiện để cô lấp đầy khoảng trống kiến thức ấy. Nghe xong, tôi choáng váng vì cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng ngẫm nghĩ lại, tôi thấy anh là người trung thực ngay thẳng. Lúc này, tôi nhận ra một phần giá trị của con người là học vấn”. Năm 1998, Bạch Tuyết tốt nghiệp Khoa Đạo diễn ở Viện Hàn lâm sân khấu và điện ảnh tại Sophia – Bungari. Sau đó, chị bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Hoàng gia kịch nghệ Anh quốc. Chị tâm sự: “Tôi cảm ơn chồng tôi, dù bây giờ cả hai chỉ còn là bạn. Chính anh đã định hướng cho tôi một lối đi mà trước đây mẹ tôi từng ao ước, đó là hướng về tri thức. Một con đường đi mãi không bao giờ đến đích”.
Lê Quang Thanh Tâm.
Hồi nhỏ, đọc truyện cổ tích, trong truyện có viết là người hiền không bao giờ chết, vì sẽ được bà tiên tới cứu. Nhưng mà mẹ Cải lương https://cailuongvn.net/ chi bảo Bạch Tuyết quá hiền, tại sao chết mà không ai cứu. Điều đó làm cho chị suy nghĩ hoài, cho đến một lúc, gặp được giáo lý của Phật giáo, thông qua giáo lý nhà Phật, Bạch Tuyết đã tìm được câu trả lời cho những bế tắc của mình.
page=1&profile_user_id=143&year=&month=
Tải thêm